1. Tòa án phải giải quyết mọi yêu cầu khởi kiện?

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015).

  • Có thể thấy, bất cứ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có đủ năng lực hành vi dân sự cũng có quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
  • Khi khởi kiện, người khởi kiện phải nộp kèm tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Nếu những tài liệu, chứng cứ này không đầy đủ thì người khởi kiện nộp những tài liệu, chứng cứ hiện có và bổ sung các chứng cứ còn thiếu theo yêu cầu của Tòa án.
  • Như vậy, pháp luật không hạn chế quyền khởi kiện của các cá nhân, tổ chức. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng dân sự còn nhấn mạnh nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (theo khoản 2 Điều 4).

Dù Tòa án không được từ chối mọi yêu cầu khởi kiện nhưng không có nghĩa tòa bắt buộc phải thụ lý trong mọi trường hợp. Để yêu cầu khởi kiện được thụ lý cần phải đáp ứng 4 yêu cầu sau:

  • Thứ nhất, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
  • Thứ hai, vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền của Tòa án;
  • Thứ ba, vụ án vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện;
  • Thứ tư, sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật

_Xem toàn bộ nội dung >>>>10 điểm cần lưu ý tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét